Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Truyền thống văn hóa

Vùng đất Sơn Lộ có đời sống văn hóa phong phú và độc đáo. Văn hóa phi vật thể có lễ hội, nghề thủ công truyền thống, tập quán xã hội và tín ngưỡng,…

Hội xuân Lồng tồng truyền thống vào tháng Giêng hằng năm, diễn ra các hoạt động biểu diễn hát then, hát lượn cọi, múa chuông, múa khèn; thi các trò chơi dân gian như kéo co, tung còn, lày cỏ, chọi bò, trưng bày mâm cỗ ngày tết. Lễ Khai xuân động đổ (Xuất hành) bắt đầu mùa năm mới.  Lễ hội là nét văn hóa độc đáo, là dịp để nhân dân các dân tộc trong xã, trong huyện gặp gỡ, giao lưu, thắt chặt tình đoàn kết, hăng hái thi đua bước vào mùa vụ mới.

Người Tày ở Sơn Lộ có kiến trúc nhà sàn độc đáo, hiện nay vẫn giữ được kiến trúc mộc mạc và đậm chất truyền thống. Nhiều ngôi nhà sàn có tuổi đời hơn 40 năm, trụ nhà được làm bằng gỗ.

Trong suốt chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân vùng đất Sơn Lộ có truyền thống yêu nước, đoàn kết, kiên cường, đóng góp sức người, sức của vào công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc.

Thế kỷ XIX, chính sách cai trị của quan quân nhà Nguyễn khiến nhân dân, nhất là nhân dân vùng biên viễn như Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên... căm phẫn. Nông Văn Vân, tri châu Bảo Lạc, kêu gọi nông dân các tỉnh miền núi phía Bắc nổi dậy chống lại triều đình. Nông Văn Vân xưng là Tiết chế thượng tướng quân, lấy Vân Trung và Ngọc Mạo làm căn cứ chính, tiến hành nhiều trận đánh lớn. Lo sợ ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa, triều đình nhà Nguyễn đã điều động nhiều tưởng giỏi với 6000 quân lên đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau nhiều lần đàn áp không thành, tháng 10/1834, triều đình nhà Nguyễn huy động một lực lượng lớn, điều thêm viện binh từ các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Bắc Ninh, Hải Dương tới ứng cứu và đàn áp cuộc khởi nghĩa theo 3 hướng tiến lên Cao Bằng. Hướng tiến quân từ Chợ Rã qua vùng đất Sơn Lộ do Nguyễn Công Trứ chỉ huy. Tháng 3/1835, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Trong cuộc khởi nghĩa Nông Văn Vân, Sơn Lộ vừa là địa bàn của nghĩa quân, vừa là nơi nhân dân địa phương theo ủng hộ nghĩa quân đông đảo. Một viên tướng của Nông Văn Vân hi sinh, được khiêng xác về đến chôn tại làng Pù Mô. Hằng năm, vào tháng Ba âm lịch, nhân dân địa phương làm lễ cúng, trong lúc làm lễ kiêng kị là không được nói tiếng Kinh, không được rửa rau hay bỏ đồ ăn xuống sông, thức ăn thừa không được mang về nhà.

Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tháng 10/1886, thực dân Pháp đánh chiếm Cao Bằng. Sau khi chiếm được thị xã, chúng đánh toả ra các châu trong tỉnh. Chúng lập Tiểu quân khu Cao Bằng thuộc Đạo quan binh 2, do tên quan năm người Pháp điều khiển cả bộ máy hành chính và quân sự. Để làm chỗ dựa cho sự thống trị, chúng duy trì và củng cố bộ máy chính quyền phong kiến từ tỉnh xuống châu, tổng, xã và tăng cường lực lượng vũ trang, lập đồn bốt kiểm soát và đàn áp phong trào cách mạng địa phương.

Dưới áp bức bóc lột của thực dân Pháp, đời sống nhân dân Sơn Lộ vô cùng cực khổ, điêu đứng. Người dân phải nộp các loại thuế điền thổ và thuế thân, bị bắt đi lính, đi phu liên miên; nhiều khi chết đói, chết rét do thiếu ăn, thiếu mặc. Thực dân Pháp và tay sai thực hiện chính sách "chia để trị", chia rẽ các dân tộc. Chúng khuyến khích hút thuốc phiện, bần cùng hoá người dân để dễ bề cai trị. Chúng vơ vét khoáng sản, tài nguyên. Pháp cho xây dựng nhà máy thuỷ điện Nà Han, kéo điện đến đồn Pháp tại xóm Pù Mô xã Cố Đạo (nay là xã Sơn Lộ) và tiến hành khai thác vàng sa khoáng.

Sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp tạo nên mối căm thù sâu sắc của nhân dân các dân tộc Sơn Lộ. Không cam phận làm nô lệ, nhân dân Sơn Lộ tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc. Phong trào đấu tranh trở nên mạnh mẽ sau khi có ánh sáng của Đảng soi đường.

Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối ở nước ta đầu thế kỷ XX. Từ đây, nhân dân các dân tộc ở Bảo Lạc, trong đó có nhân dân Sơn Lộ chiến đấu anh dũng dưới ngọn cờ của Đảng.

Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, đầu năm 1930, Chi bộ Hải ngoại Long Châu cử đồng chí Hoàng Văn Nọn về Cao Bằng hoạt động để chuẩn bị tiến tới thành lập tổ chức đảng ở Cao Bằng. Sau một thời gian tuyên truyền, rèn luyện, ngày 01/4/1930, tại Nặm Lìn, xã Hoàng Tung, châu Hòa An, đồng chí Hoàng Văn Nọn thay mặt Chi bộ Hải ngoại Long Châu, kết nạp hai đồng chí tiêu biểu trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Cao Bằng vào Đảng Cộng sản Việt Nam và tuyên bố thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Cao Bằng.

Những năm 1930 - 1935, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, nhân dân Cao Bằng được tập hợp đấu tranh trong nhiều hình thức tổ chức hội, như Hội Ái hữu, Hội Tương tế, Nông hội đỏ, Hội làng, Hội bản... Nhiều thanh niên hăng hái tham gia hoạt động cách mạng. Cao Bằng nhanh chóng trở thành cầu nối liên lạc giữa ban lãnh đạo hải ngoại với các cơ sở cách mạng ở trong nước. Trong cao trào cách mạng dân tộc dân chủ 1936 - 1939, trước những điều kiện cách mạng trong nước có nhiều thuận lợi, thực hiện chủ trương của Đảng về chuyển hướng đấu tranh, các tổ chức yêu nước và cách mạng đã có nhiều hoạt động phát triển hội viên và mở rộng địa bàn hoạt động trong quần chúng. Dưới ánh sáng của Hội nghị Trung ương tháng 7/1936, phong trào cách mạng của nhân dân Cao Bằng có những chuyển biến mới, thu hút đông đảo  các dân tộc ít người tham gia, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, của các Ban Châu ủy và chi bộ cộng sản.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ (9/1939), cách mạng nước ta bước vào tình thế mới. Ngày 06/11/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Hóc Môn, Bà Điểm (Gia Định) ra nghị quyết về tình hình thế giới, tình hình Đông Dương và về chủ trương của Đảng; quyết định chuyển hướng chiến lược, đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trên hết; đánh đổ đế quốc phát xít Pháp - Nhật là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Tháng 6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Nhân cơ hội này, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân ta lại phải rên xiết dưới hai tầng áp bức của phát xít Pháp - Nhật. Nhưng ách áp bức bóc lột càng nặng nề thì tinh thần và khát vọng đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta lại càng dâng cao. Trước tình thế mới của cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định trở về Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo phong trào.

Tháng 5/1941, Hội Nghị Trung ương lần thứ tám, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh; đề ra chủ trương sửa soạn khởi nghĩa vũ trang; quyết định duy trì và phát triển cơ sở du kích Bắc Sơn - Võ Nhai, đồng thời ra sức củng cố, mở rộng cơ sở ở Cao Bằng, xây dựng những nơi đó làm trung tâm của việc chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa tại Việt Bắc về sau. Có thể nói, một thời kỳ cách mạng mới đang mở ra trước mắt nhân dân các dân tộc Sơn Lộ nói riêng và nhân dân Bảo Lạc nói chung.

Cuối năm 1941, phong trào Việt Minh đã xuất hiện ở nhiều nơi thuộc châu Bảo Lạc. Các tổ chức cứu quốc và hội viên các hội cứu quốc phát triển mạnh, nhất là ở những nơi có chi bộ đảng. Các hội viên và các cơ sở tổ chức Việt Minh được chú ý phát triển ở các xã cả vùng thấp và vùng cao, trong các dân tộc như Kinh, Tày, Nùng, Mông, Dao. Sự phát triển sâu rộng của các đoàn thể Việt Minh tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các đội vũ trang chiến đấu trên vùng đất Bảo Lạc.

Tháng 4/1942, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Pác Bó xuống Lam Sơn (Hòa An), nơi đặt cơ quan của Tỉnh ủy Cao Bằng. Sau khi kiểm tra phong trào Việt Minh ở 3 châu là Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Người quyết định mở các tuyến đường “Nam tiến”, phát triển phong trào cách mạng theo 3 hướng. Thực hiện chủ trương này, mùa Hè năm 1943, cuộc Nam tiến được thực hiện. Bảo Lạc cùng với căn cứ địa của Cao Bằng đã được các đội xung phong Nam tiến nối liền với các khu du kích và xa hơn là mở ra khả năng nối liền với các tỉnh có phong trào cách mạng đang phát triển mạnh, gắn phong trào cách mạng của Bảo Lạc cũng như của Cao - Bắc - Lạng với phong trào cách mạng của cả nước. Phong trào cách mạng trên địa bàn Sơn Lộ nhận được những ảnh hưởng tích cực từ bối cảnh chung. Trên địa bàn xã Cố Đạo có 2 nhóm cán bộ Việt Minh đến từ các châu Hà Quảng, Nguyên Bình. Nhóm 1 do đồng chí Hùng Quốc phụ trách, được đồng chí Hoàng Thị Bình (người Hà Quảng) dẫn đến xóm Khưa Lốm tổ chức họp mặt để tổ chức Việt Minh với sự có mặt đồng chí Kim Quý, sau đó mở rộng thêm các đồng chí Quang Sinh, đồng chí Lộc…. Nhóm 2 do các đồng chí Hồng Đào, đồng chí Minh ngọc, đồng chí Giáp, đồng chí Sơn Lộ, đồng chí Mỹ Liên châu Hoà An, châu Hà Quảng về tổ chức tại khu vực Thái Học, Vĩnh Quang, rồi đến tổ chức ở khu vực Lũng Thôm. Người địa phương tham gia gồm: Ma Văn Vương, Anh Văn Đoan (bí danh Thống), Lục Thị Quý (bí danh Ngọc Liên)[1].

Ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo, Nguyên Bình. Ngay sau khi thành lập, Đội đã tổ chức những trận đánh vang dội tại Phai Khắt, Nà Ngần. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng, tuyên truyền vũ trang ở nhiều cơ sở trong vùng, trong đó có châu Bảo Lạc.

Đầu năm 1945, tình hình khu phố Trung Mang (khu phố Bảo Lạc) hết sức phức tạp. Thực dân Pháp bắt đầu rút khỏi khu phố theo đường Cốc Pàng - Lũng Làn - Mèo Vạc. Bọn Nhật, Quốc Dân Đảng và các toán phỉ hoạt động vùng biên giới và bọn thổ ty ra sức hoạt động quấy phá. Một số người Hoa ở Nước Hai - Hòa An lợi dụng tình hình tràn vào khu phố, dựa vào một số gia đình người Hoa giàu có để tuyên truyền, lôi kéo người dân Bảo Lạc gia nhập tổ chức Nam Dương Hoa kiều hiệp hội. Từ tháng 3/1945 đến tháng 5/1945, bọn Châu đoàn Chài, tay chân của thực dân Pháp vẫn nghênh ngang trên phố Bảo Lạc và nắm bọn lính dõng toàn châu Bảo Lạc. Chúng dựa vào vũ khí, lương thực của Pháp để lại, tổ chức cho tay chân truy lùng và sát hại cán bộ Việt Minh.

Sự khủng bố của kẻ thù không ngăn cản được làn sóng đấu tranh của quần chúng và lực lượng vũ trang tuyên truyền. Tiếp theo tiếng súng Phai Khắt, Nà Ngần, vào đêm mùng 4 rạng sáng ngày 05/02/1945, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, được sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả của nhân dân các dân tộc ở Bảo Lạc, trong đó có nhân dân xã Sơn Lộ, đã tấn công đồn Đồng Mu, diệt nhiều tên địch, thu súng và đạn dược. Trong trận đánh này, đồng chí Hoàng Văn Nhủng (bí danh Xuân Trường), quê ở Sóc Hà, Hà Quảng, đã anh dũng chiến đấu và hy sinh, trở thành liệt sĩ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ kết quả phong trào cách mạng tại địa phương, nhất là phong trào vũ trang tự vệ đã phát triển, Đội tự vệ châu Bảo Lạc được thành lập, đội vũ trang tập trung đầu tiên của châu Bảo Lạc, tiền thân của lực lượng vũ trang huyện Bảo Lạc ngày nay.

Cùng với những hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, các đội tự vệ trong xóm, bản, tổng, xã ở Sơn Lộ và các địa bàn khác của Bảo Lạc cũng đẩy mạnh hoạt động. Đến năm 1945, ở xã Đồng Mu (nay thuộc xã Xuân Trường), phong trào cách mạng phát triển mạnh trong các tầng lớp nhân dân. Đó là cơ sở quan trọng để hình thành nên tổ chức cộng sản đầu tiên ở Bảo Lạc. Ngày 15/4/1945, Chi bộ cộng sản đầu tiên ở châu Bảo Lạc đã ra đời tại hang Trông Nhìa Hậu, xóm Lũng Sâu (nay thuộc xã Hồng An). Sự ra đời của chi bộ cộng sản đầu tiên của Bảo Lạc đánh dấu thời kỳ phát triển mới của phong trào cách mạng ở châu Bảo Lạc, trong đó có vùng đất Sơn Lộ.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (09/3/1945), tình thế cách mạng nhanh chóng xuất hiện trên toàn tỉnh Cao Bằng. Đến tháng 4/1945, quân Nhật đã chiếm giữ các vị trí quan trọng trên toàn tỉnh. Trước hoàn cảnh đó, chấp hành sáng tạo những chủ trương của Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, lực lượng vũ trang ở Bảo Lạc đã có những hoạt động binh vận thành công đáng kể, nhất là với những người Pháp đang hoang mang, dao động hoặc rút chạy trước sự tấn công của quân Nhật. Ở khu phố Bảo Lạc, cán bộ Việt Minh đã hoạt động công khai, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt Minh. Cùng với hoạt động tấn công quân Nhật trên địa bàn, công tác tiễu phỉ được lực lượng vũ trang địa phương coi trọng.

Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng và các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh, một số xã ở Bảo Lạc tiếp tục giành chính quyền thắng lợi. Cùng với xã Nặm Quét (nay thuộc xã Cô Ba); và các địa bàn thuộc xã Huy Giáp và Bảo Toàn ngày nay, vùng đất Sơn Lộ giành chính quyền thắng lợi, thành lập chính quyền cách mạng, mở ra một thời kỳ cách mạng mới đối với đồng bào các dân tộc Sơn Lộ trên con đường đi tới ấm no, hạnh phúc.



[1] Tư liệu do Đảng ủy xã cung cấp sau Hội thảo lần 1.

Đăng nhập